Chuyên đề:
VẤN ĐỀ QUYỀN XÁC ĐỊNH GIỚI TÍNH VÀ QUYỀN CHUYỂN GIỚI TRONG DỰ THẢO BỘ LUẬT DÂN SỰ (SỬA ĐỔI)
Luật gia Trương Hồng Quang*
- Một số khái niệm công cụ
Xác định giới tính và chuyển đổi giới tính là những vấn đề đã và đang tồn tại trong xã hội hiện nay. Vậy liệu có phải hai quyền này là đồng nhất với nhau như quan niệm của nhiều người hay không?
Trước hết, phải khẳng định rằng đây là hai vấn đề khác nhau, không đồng nhất. Quyền xác định giới tính liên quan đến nhóm người liên giới tính (intersex), còn quyền chuyển đổi giới tính liên quan đến nhóm người chuyển giới (transgender). Người liên giới tính và người chuyển giới hoàn toàn khác nhau và đều không phải là một bệnh lý. *
Hiệp hội Tâm lý học Mỹ (APA) định nghĩa các trạng thái liên giới tính là “để chỉ tất cả những trạng thái dẫn đến sự phát triển không điển hình của các đặc điểm giới tính và sinh lý trên cơ thể. Những trạng thái này có thể liên quan đến những đặc điểm bất thường của các bộ phận sinh dục bên ngoài, các cơ quan sinh sản bên trong, nhiễm sắc thể giới tính, hoặc các hormone giới tính”[1]. Bên cạnh đó, Hội người Liên giới tính Bắc Mỹ định nghĩa: “Liên giới tính là một thuật ngữ tổng quát để chỉ chung các trạng thái mà khi đó, về mặt tính dục hay sinh sản, một người sinh ra với một cơ thể không có vẻ phù hợp với các định nghĩa thông thường về người nữ hay nam”[2]. Một số ví dụ về các trạng thái liên giới tính là:
– Các bộ phận sinh dục bên ngoài: không phân loại được dễ dàng là của nam hay nữ.
– Các cơ quan sinh sản bên trong: phát triển không hoàn chỉnh hay bất thường.
– Có sự không nhất quán giữa các bộ phận sinh dục bên ngoài và các cơ quan sinh sản bên trong.
– Có các đặc điểm bất thường về nhiễm sắc thể giới tính.
– Tinh hoàn hoặc buồng trứng phát triển không bình thường.
– Việc sản xuất hormone giới tính trên hoặc dưới mức thông thường.
– Cơ thể không có khả năng phản ứng bình thường với các hormone giới tính.
Như vậy, người liên giới tính không nhất thiết phải có biểu hiện “có hai bộ phận sinh dục” hay “bộ phận sinh dục không rõ ràng”. Vì đặc điểm giới tính còn thể hiện cả ở những cơ quan không thấy được bên ngoài như tinh hoàn, tử cung, tuyến nội tiết, nhiễm sắc thể, hormone. Một người sinh ra với bộ phận sinh dục ngoài (dương vật, âm hộ…) trông hoàn toàn bình thường vẫn có khả năng là một người liên giới tính. Người liên giới tính cần được chẩn đoán, phẫu thuật để xác định giới tính nam hoặc nữ. Tại Việt Nam, những người liên giới tính thường được gọi bằng “người có khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác”. Tuy nhiên, khái niệm này thiên về mô tả, nhưng cũng chưa mô tả đầy đủ các trạng thái của liên giới tính. Thực tế, người ta chưa ghi nhận trường hợp nào có bộ phận sinh dục của cả nam và nữ tồn tại đồng thời một cách hoàn chỉnh về cấu trúc và hoạt động. Các tình trạng liên giới tính là một sự trộn lẫn, mỗi cái chưa hoàn thiện, hoặc trong ngoài không khớp với nhau, hay một đặc điểm giới tính nào đó không điển hình. Vì vậy, cách dịch “liên giới tính” là phù hợp.
Trong khi đó, khác với người liên giới tính, người chuyển giới có giới tính sinh học khi sinh ra hoàn toàn bình thường. Tuy nhiên, người đó lại mong muốn, tự nhận mình mang giới tính khác với giới tính sinh học khi được sinh ra[3]. Một điều rất quan trọng là, không nhất thiết phải trải qua phẫu thuật chuyển giới thì mới được xem là người chuyển giới. Có hai dạng người chuyển giới là: người chuyển giới nam sang nữ và người chuyển giới nữ sang nam. Sau khi được phẫu thuật chuyển đổi giới tính thì người đó được gọi với khái niệm đầy đủ hơn là người chuyển đổi giới tính (transsexual). Như vậy, có thể hiểu quyền chuyển đổi giới tính được áp dụng đối với người chuyển giới.
- Bình luận quy định về quyền xác định giới tính và quyền chuyển giới trong dự thảo Bộ luật Dân sự
Vấn đề này hiện được quy định trong Dự thảo như sau:
“Điều 40. Quyền xác định lại giới tính
- Cá nhân là người thành niên có quyền được xác định lại giới tính trong trường hợp luật quy định.
- Người đại diện theo pháp luật chỉ có quyền yêu cầu xác định lại giới tính của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi trong các trường hợp luật định.
- Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo quy định của luật.
- Phương án 1:
Nhà nước không thừa nhận việc chuyển giới.
Phương án 2:
Trong trường hợp đặc biệt, việc chuyển giới phải được cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định của luật.”
Tác giả có một số nhận xét đối với quy định trên của Dự thảo như sau:
Đánh giá một cách khách quan, so với các dự thảo trước đây thì dự thảo đưa ra lấy ý kiến nhân dân đã có một bước tiến bộ khi quy định thành hai phương án đối với đối tượng người chuyển giới. Tuy vậy, việc quy định hai loại quyền xác định lại giới tính và quyền của người chuyển giới trong một điều luật là thực sự khiên cưỡng. Bản thân quyền “xác định lại giới tính” là dành cho người liên giới tính (người có khuyết tật bẩm sinh về giới tính, không thể định hình rõ mang giới tính nào…) còn quyền chuyển giới, phẫu thuật chuyển đổi giới tính là của người chuyển giới (sinh ra có giới tính sinh học rõ ràng nhưng có mong muốn, nhu cầu được chuyển đổi giới tính). Như vậy, hai quyền này áp dụng cho hai đối tượng khác nhau. Nếu như phương án 1 của khoản 4 được thông qua thì quy định này hoàn toàn có thể được quy định ở điều 40. Nếu như phương án 2 được thông qua thì khoản 4 này phải được tách thành một điều riêng biệt.
Cũng cần nhấn mạnh thêm các quyền liên quan đến xác định giới tính của người liên giới tính, quyền chuyển đổi giới tính của người chuyển giới có nội hàm quyền rộng. Quyền này bao gồm các nội dung: thừa nhận hai đối tượng có quyền được tiến hành phẫu thuật, được cải chính lại hộ tịch cũng như các giấy tờ nhân thân. Đối với người chuyển giới thì quyền này càng có ý nghĩa quan trọng là pháp luật thừa nhận họ trong đời sống dân sự, cho phép họ chọn giới tính đúng với mong muốn của mình (dĩ nhiên phải tuân theo những quy trình nhất định). Do vậy, khi nói đến quyền xác định giới tính hay quyền chuyển đổi giới tính không đơn giản chỉ là việc cho phép họ xác định lại giới tính như một thủ tục hộ tịch.
2.1. Quy định về “xác định lại giới tính”
Theo tác giả, quy định tại Điều 40 như trong dự thảo liên quan đến “xác định lại giới tính” còn một số vấn đề cần xem xét lại.
Một là, cách dùng từ “xác định lại giới tính” là không thực sự chính xác. Không có sự “lại” nào ở đây. Người liên giới tính vốn dĩ sinh ra với trạng thái và đặc điểm cơ thể như vậy. Một cách gián tiếp, điều này đặt ra một quan điểm áp đặt những gì không điển hình sẽ nên phải “xác định lại” để trở thành giống như số đông. Chính vì vậy, tác giả đề nghị điều luật chỉ nên dùng cụm từ “Quyền xác định giới tính”. Bên cạnh đó, nội dung điều luật cũng nên minh định rõ quyền này được áp dụng cho người liên giới tính.
Hai là, khoản 2 của Điều này quy định: “Người đại diện theo pháp luật chỉ có quyền yêu cầu xác định lại giới tính của người chưa thành niên…”. Tác giả cho rằng nên cân nhắc quy định việc tiến hành phẫu thuật xác định giới tính không nên áp dụng cho đối tượng dưới 18 tuổi (chưa thành niên). Hãy để cho người đó tự quyết định về giới tính, về bản thân con người mình. Thực tế cho thấy nhiều trường hợp người liên giới tính từ bé được bố mẹ đưa đi phẫu thuật xác định giới tính nhưng sau khi lớn lên họ không hài lòng với giới tính được xác định nên đã đi phẫu thuật lại. Đây cũng là khuyến cáo của nhiều tổ chức quốc tế về người liên giới tính, theo đó việc phẫu thuật đối với người liên giới tính chỉ nên được thực hiện khi người đó đã trưởng thành, được cung cấp đầy đủ các thông tin có liên quan để đưa ra một quyết định cho bản thân[4] .
Ba là, trong các khoản 1, 2 và 3 có sử dụng các cụm từ “trong trường hợp luật quy định”, “trong các trường hợp luật quy định”, “theo quy định của luật”[5]. Tác giả cho rằng Ban soạn thảo nên cân nhắc lại việc sử dụng thuật ngữ “luật” trong các trường hợp này bởi thông thường các Điều này sẽ được hướng dẫn cụ thể bởi Nghị định của Chính phủ hoặc thấp hơn là Thông tư của Bộ Y tế. Sẽ không khả thi khi có một đạo Luật nào đó hướng dẫn cụ thể quy định này của Bộ luật Dân sự. Do vậy, tác giả đề nghị Điều này nên sử dụng cụm từ “theo quy định của pháp luật” sẽ hợp lý hơn.
2.2. Quy định về “chuyển giới”
Mặc dù việc khoản 4 của Điều 40 nêu trên đưa ra hai phương án cũng được xem là có tiến bộ nhưng tác giả đề nghị cần dứt khoát hơn bằng cách chọn và làm rõ hơn phương án 2.
Nếu phương án 1 của dự thảo hiện tại được lựa chọn, thì nhà nước sẽ không cấm người chuyển giới phẫu thuật thay đổi giới tính, nhưng lại không thừa nhận. Điều này cũng giống như Luật hôn nhân và gia đình bỏ điều cấm kết hôn cùng giới nhưng vẫn chưa thừa nhận, dẫn đến việc cặp đôi đồng tính không thể đăng ký kết hôn với chính quyền. Nếu vậy, những khó khăn của người chuyển giới vẫn không được giải quyết. Họ vẫn không thể thực hiện việc chuyển giới ở Việt Nam, không có dịch vụ chăm sóc y tế liên quan đến việc chuyển giới, và vẫn chưa được thay đổi họ tên, giới tính trên giấy tờ.
Nếu phương án 2 được lựa chọn, một vấn đề đặt ra là định nghĩa của “trong trường hợp đặc biệt” là gì. Nếu không được định nghĩa rõ ràng thì người chuyển giới cũng khó thực hiện được việc chuyển đổi giới tính ở Việt Nam. Một người chuyển giới có cơ thể bình thường, dù có khát khao được chuyển đổi giới tính, thì cơ quan chức năng vẫn có thể coi họ không thuộc “trường hợp đặc biệt”. Bên cạnh đó, “cơ quan có thẩm quyền” cũng cần phải được xác định rõ ràng, có thể là các chuyên gia tâm lý, hoặc các cơ sở y tế có chuyên môn.
Như vậy, dường như dự thảo hiện tại vẫn chưa đủ đột phá để bảo vệ quyền của người chuyển giới. Có nhiều lý do được viện dẫn cho việc này, chủ yếu là coi chuyển giới là trái tự nhiên, hoặc sợ chuyển giới thành phong trào gây hậu quả về sức khỏe và quản lý xã hội.
Theo tác giả, cần ghi nhận quyền chuyển đổi giới tính của người chuyển giới. Điều này xuất phát từ các lý do sau đây:
Thứ nhất, dưới góc độ nhân quyền quốc tế. Hiến chương Liên hợp quốc không đưa ra bất kì một nghĩa vụ đặc biệt nào về quyền con người đối với các nước thành viên, ngoại trừ nghĩa vụ chung được đưa ra “hành động hỗ trợ và riêng biệt” để “đẩy mạnh sự tôn trọng, tuân theo sự tự do cơ bản và các quyền của con người đối với tất cả mọi người, không có sự phân biệt về giới tính, ngôn ngữ, hoặc tôn giáo”. Điều 2 của Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người năm 1948 đã ngăn cấm các quốc gia có sự định kiến cá nhân chống lại những cá nhân khác, căn cứ vào các tiêu chuẩn sau “…như chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính trị, hoặc các chính kiến và quan niệm khác, quốc gia hoặc nguồn gốc xã hội, tài sản, dòng dõi hoặc tình trạng khác”. Điều này cũng được ghi nhận tương tự tại các Điều 2(1), 3 và 26 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966). Khác biệt với Hiến chương Liên Hợp quốc, Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người năm 1948 diễn tả một khoảng “mở” đó là “tình trạng khác” trở thành một dạng được bảo vệ, có nghĩa rằng người đồng tính, song tính, chuyển giới có thể được lý giải như một loại “tình trạng khác”. Hơn nữa, từ “mọi người” được lặp lại nhiều lần trong hầu hết các quy định của Tuyên ngôn nói trên, ngoài ra các cụm từ như “sự tự do”, “không phân biệt đối xử” và “các quyền về sự công bằng” được xem như gắn liền với mọi cá nhân. Ngoài ra, Bộ nguyên tắc Yogyakarta[6] được ra đời để áp dụng Luật Nhân quyền cho những vấn đề có liên quan đến xu hướng tính dục và bản dạng giới. Các nguyên tắc này sẽ xác định nghĩa vụ của các quốc gia là phải tôn trọng, bảo vệ và thực hiện nhân quyền của tất cả mọi người bất kể xu hướng tính dục hoặc giới tính của họ. Hiện nay các quốc gia của thế giới tự do đang vận động để đưa những Nguyên tắc Yogyakarta vào trong pháp luật của họ.
Bên cạnh đó, nội dung Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) đã nêu rất rõ vấn đề bình đẳng giữa nam và nữ, chống lại sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ. Vấn đề đặt ra là việc không thừa nhận quyền của người chuyển giới có được xem là bình đẳng hay không? Ví dụ một người chuyển giới từ nam sang nữ (sinh ra có giới tính sinh học là nam nhưng mong muốn có giới tính là nữ) – bản chất của người này là phụ nữ nhưng lại không được sống là chính mình, không được hưởng những quyền riêng có của nữ giới thì có được xem là bình đẳng hay không? Ngược lại một người chuyển giới từ nữ sang nam, họ mong mình có giới tính là nam nhưng không được chấp nhận, vậy họ có được bình đẳng với những nam giới khác trong xã hội hay không? Thực chất, bình đẳng giới không chỉ hướng đến bình đẳng giữa hai giới nam và nữ mà còn phải đảm bảo bình đẳng ngay trong cùng một giới[7] .
Gần đây nhất là những khuyến nghị mà Việt Nam chấp nhận tại kỳ Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát của Liên hợp quốc (tháng 6/2014): “Tiếp tục thực thi các chính sách để xóa bỏ phân biệt đối xử đối với những người thuộc các nhóm yếu thế, bao gồm việc cung cấp cho họ tiếp cận với an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe, giáo dục và nhà ở (số 143.86 của Serbia); Thông qua một luật chống lại phân biệt đối xử đảm bảo bình đẳng cho tất cả công dân, bất kể xu hướng tính dục và bản dạng giới (số 143.88 của Chile)”[8] . Từ đó, Việt Nam cần phải có những hành động tích cực hơn nữa đối với vấn đề này.
Trên thế giới, chuyển giới đã được loại ra khỏi danh sách bệnh tâm thần (DSM-5) và chỉ còn coi là tình trạng không hài lòng với giới tính sinh học của mình[9]. “Trái tự nhiên” hay không tùy thuộc vào cách hiểu thế nào là “tự nhiên” của mỗi người, nhưng hạnh phúc là chính mình thì là quyền của người chuyển giới. Chính vì vậy, để đảm bảo quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc của người chuyển giới, nhiều quốc gia đã cho phép chuyển đổi giới tính để người chuyển giới được sống thật là mình.
Thứ hai, nhu cầu xuất phát từ thực tiễn Việt Nam thời gian qua.
Người chuyển giới tại Việt Nam tồn tại và được ghi nhận từ khá sớm, với nhiều cách gọi, hiểu khác nhau theo lịch sử (Đại Việt Thông Sử[10] đã ghi nhận trường hợp “con gái Nghệ An biến thành con trai” vào năm 1351, hay con trai trưởng của vua Hiến Tông là “thông minh, học rộng, sức lực hơn người, nhưng tính ngang bướng, thích mặc áo phụ nữ.”)[11] . Trong xã hội hiện đại, người chuyển giới Việt Nam ngày càng hiện diện rõ ràng hơn nhưng vẫn chưa được công nhận, chưa có quyền phẫu thuật chuyển đổi giới tính. Từ đó, đã dẫn đến một số hệ lụy cần phải quan tâm như sau:
(1) Mặc dù người chuyển giới đang tồn tại trong xã hội nhưng thực chất họ sống ngoài vùng phủ sóng, như người vô hình: không được công nhận, nếu ra nước ngoài phẫu thuật chuyển đổi giới tính thì khi trở về Việt Nam cũng không được thay đổi giấy tờ nhân thân, hộ tịch… Bản thân người chuyển giới (dù chưa phẫu thuật) gặp nhiều khó khăn trong đời sống, việc làm[12] , tiếp cận y tế, an sinh xã hội, bị chính gia đình, xã hội kỳ thị, thậm chí bị chính gia đình đối xử bạo lực, hành hạ về thể xác cũng như tinh thần… Trong khi đó, các cơ chế hỗ trợ, nhất là hỗ trợ pháp lý chưa thực sự hoàn thiện.
(2) Thực tế một số trường hợp người đã phẫu thuật chuyển giới bị xâm hại nhưng không được bảo vệ thích đáng. Thực tế có nhiều người Việt Nam đã phát triển hoàn thiện về giới tính (là nam hoặc nữ) đã ra nước ngoài để phẫu thuật từ nam thành nữ hoặc từ nữ thành nam. Những người này, khi về Việt Nam, theo quy định hiện nay, họ không được phép làm lại giấy tờ hộ tịch nên xảy ra thực trạng một số người đã được phẫu thuật chuyển giới có hình dạng bên ngoài và cơ quan sinh dục là nữ nhưng trên chứng minh nhân dân, hộ chiếu và giấy khai sinh, hộ khẩu của họ vẫn ghi là “nam” và ngược lại. Vì vậy, trên thực tế đã xảy ra việc một người phẫu thuật chuyển đổi giới tính từ nam thành nữ bị một người nam giới khác thực hiện hành vi giao cấu trái phép gây nên những khó khăn trong việc xử lý hình sự, cho đến nay vẫn chưa được bảo vệ quyền lợi thỏa đáng[13] . Tác giả ủng hộ quan điểm cho rằng, hành vi giao cấu trái phép với người chuyển đổi giới tính từ nam thành nữ xét về bản chất giống như hành vi giao cấu trái phép với những người phụ nữ; đều xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người, xâm phạm quyền tự do và bất khả xâm phạm về tình dục của con người nên tùy thuộc vào cách thức thực hiện hành vi phạm tội mà có thể cấu thành tội hiếp dâm hoặc tội cưỡng dâm. Tuy nhiên, nếu chúng ta chính thức thừa nhận người chuyển giới và cho phép họ được thay đổi giới tính thì sẽ tránh được những khó khăn và tranh luận không cần thiết khi định tội danh đối với những hành vi nêu trên.
(3) Sự khó khăn trong thực thi pháp luật tố tụng hình sự.
Cũng xuất phát từ việc không được công nhận quyền phẫu thuật chuyển đổi giới tính như trên, việc thực thi pháp luật tố tụng hình sự đối với những người đã phẫu thuật chuyển giới tính cũng gặp khó khăn.
Khi tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự (TTHS) cũng như trong quá trình thi hành án hình sự, có một số biện pháp cưỡng chế mà khi thực hiện cần căn cứ vào giới tính của đối tượng áp dụng như khám người, tạm giữ, tạm giam trong TTHS; thi hành án phạt tù có thời hạn, tù chung thân trong TTHS. Thực tiễn áp dụng cho thấy, khi áp dụng các biện pháp này đối với người chuyển giới đã có một số khó khăn nhất định và có thể xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm và quyền tự do của họ. Bên cạnh đó, theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003, khi khám người thì nam khám nam, nữ khám nữ và phải có người cùng giới chứng kiến (Điều 142). Đối với những người đã phẫu thuật chuyển đổi giới tính (từ nam thành nữ hoặc từ nữ thành nam) nhưng trên các giấy tờ nhân nhân vẫn ghi giới tính cũ của họ, nếu chúng ta để người khám và người chứng kiến đều là người cùng giới với giới tính cũ của họ sẽ xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người bị khám.
Theo quy định của pháp luật TTHS và pháp luật về thi hành án hình sự, khi tạm giữ, tạm giam hoặc thi hành hình phạt tù, chúng ta bố trí, phân loại khu vực giam giữ bị can, bị cáo, người phạm tội theo giới tính: nam giam, giữ riêng; nữ giam, giữ riêng. Trong trường hợp này, đối với người đã phẫu thuật chuyển đổi giới tính gây khó khăn cho các cơ quan. Có thể nhận thấy việc giam giữ chung người chuyển giới với phạm nhân bình thường có thể gây ức chế tâm sinh lý, làm ảnh hưởng sinh hoạt của tất cả mọi người. Thời gian qua cũng đã có vụ việc một người chuyển giới bị các phạm nhân bình thường tẩy chay không chịu cho ở chung[14]. Trên giấy tờ tùy thân của phạm nhân này là nam nhưng thực tế thì đã phẫu thuật chuyển đổi giới tính thành nữ. Khi lực lượng chức năng đưa người này vào phòng giam nam thì bị các can phạm nam tẩy chay, không cho ở chung. Sau đó, lực lượng chức năng chuyển sang phòng giam nữ, các can phạm nữ cũng cương quyết không chịu. Công an Quận 11 đành chuyển người này đến Trại tạm giam Chí Hòa (Thành phố Hồ Chí Minh) nhờ giải quyết. Điều may mắn là ở đây có một phòng giam toàn các phụ nữ đã lớn tuổi, thấu hiểu hoàn cảnh nên chấp nhận cho phạm nhân nói trên ở cùng.
(4) Lo ngại về việc lạm dụng quyền phẫu thuật chuyển đổi giới tính là không thực sự có cơ sở
Thời gian qua cũng có ý kiến lo ngại nếu cho phép chuyển đổi giới tính sẽ có nhiều người (không phải là người chuyển giới) đi phẫu thuật để trốn tránh pháp luật (tội phạm). Thực tế, việc phẫu thuật chuyển đổi giới tính không thay đổi khuôn mặt (chỉ thay đổi nếu phẫu thuật thẩm mỹ). Một điểm rất quan trọng là dấu vân tay của người đó không thể thay đổi được. Hơn nữa, không phải muốn chuyển giới là được bởi nếu không thực sự là người chuyển giới sẽ khó vượt qua giai đoạn về kiểm tra đời sống thực (sống như giới tính mình mong muốn). Những hệ quả lâu dài (giảm tuổi thọ, không có khả năng có con cái, tiêm hormone suốt đời…) có thể làm nhiều người chuyển giới e ngại, bỏ cuộc chứ chưa nói đến những người dị tính hay đồng tính. Chính vì vậy, sự lo ngại trên là không hợp lý.
Để đảm bảo “phong trào chuyển giới” không diễn ra như e ngại của nhiều người (dù trên thực tế không ai lại bỏ ra hàng trăm triệu và chịu đau đớn do phẫu thuật chỉ vì theo phong trào), pháp luật có thể học kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới xây dựng một quy trình tư vấn tâm lý và pháp lý giúp người chuyển giới hiểu bản thân và chuẩn bị cho cuộc sống với giới tính mới của họ. Ví dụ, người chuyển giới cần được tư vấn về tâm lý để họ thực sự xác định đúng nhu cầu chuyển giới của mình, có thời gian sống thử với giới tính mong muốn trước khi được kê đơn sử dụng hóc môn. Sau đó, dịch vụ phẫu thuật và chăm sóc hậu phẫu mới được cung cấp và thực hiện nếu các điều kiện được thỏa mãn.
(5) Lo ngại về sức khỏe y tế khi một người phẫu thuật chuyển đổi giới tính
Thực tế, sau khi phẫu thuật chuyển đổi giới tính thì người chuyển giới có khả năng sẽ bị giảm tuổi thọ, sức khỏe suy giảm, tiêm thuốc hormon suốt đời… Tuy nhiên, không nên lấy lý do này ngăn cản người chuyển giới không có quyền được sống đúng với giới tính mong muốn của họ. Việc tiến hành phẫu thuật chuyển đổi giới tính là việc tự nguyện, là nhu cầu của người chuyển giới và các tác dụng phụ đối với sức khỏe sau phẫu thuật đều được thông tin cho họ trước khi phẫu thuật. Vấn đề này cũng không có ảnh hưởng xấu đến xã hội cũng như các cá nhân khác.
(6) Việc ghi nhận quyền xác định giới tính của người liên giới tính càng cho thấy nên ghi nhận quyền phẫu thuật chuyển đổi giới tính của người chuyển giới
Nhà nước không chỉ ghi nhận quyền của những người có khuyết tật bẩm sinh về cơ thể còn cần phải ghi nhận mong muốn chính đáng của những người chuyển giới. Quy định về quyền nhân thân này của người chuyển giới cũng giúp mọi người hiểu được sự khác nhau giữa họ và người liên giới tính. Bản thân người liên giới tính cũng chỉ chiếm số ít trong xã hội giống như người chuyển giới nên không có lý do gì không công nhận quyền tương tự của người chuyển giới. Người liên giới tính hay người chuyển giới đều là những điều tự nhiên của xã hội, không xuất phát từ ý chí chủ quan của người đó nên không gây hoặc tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn xã hội. Do đó, họ phải có các quyền nhân thân đầy đủ.
Từ những lý do trên, tác giả đề nghị dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) nên công nhận quyền chuyển đổi giới tính của người chuyển giới. Mức độ ghi nhận đầu tiên có thể là: muốn được công nhận là người chuyển giới phải trải qua quy trình phẫu thuật chuyển đổi giới tính thì mới được thay đổi giấy tờ hộ tịch có liên quan. Có thể thiết kế điều luật như sau:
“Điều… Quyền chuyển đổi giới tính
- Quyền chuyển đổi giới tính được áp dụng cho người chuyển giới đã thành niên.
- Các vấn đề cụ thể về quyền chuyển đổi giới tính do pháp luật quy định.”
Khi quy định quyền chuyển đổi giới tính của người chuyển giới cũng cần lưu ý đến việc bổ sung quy định pháp luật hộ tich về thủ tục thay đổi họ, tên đối với các trường hợp người chuyển giới đã tiến hành phẫu thuật. Nếu tiến bộ hơn, Bộ luật Dân sự nên cho phép người chuyển giới dù chưa phẫu thuật nhưng cũng có thể đổi tên theo hướng “trung dung” hơn, tránh gây sự kỳ thị trong xã hội vì ngoại hình và giới tính./.
* Nghiên cứu viên, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp. Email: quangth@moj.gov.vn
[1] Xem: http://www.apa.org/topics/sexuality/intersex. pdf (Cổng thông tin của Hiệp hội Tâm lý Mỹ).
[3] Trương Hồng Quang, Người chuyển giới tại Việt Nam dưới góc nhìn pháp lý, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 21, tháng 11/2013. Trong khi đó, người đồng tính không mong muốn mình có giới tính khác với giới tính khi được sinh ra và chỉ yêu người có cùng giới tính với mình.
[4]Xem khuyến cáo của Hiệp hội Người liên giới tính Bắc Mỹ tại: What does ISNA recommend for children with intersex?, nguồn: http://www.isna.org/faq/patient-centered (“Surgeries done to make the genitals look “more normal” should not be performed until a child is mature enough to make an informed decision for herself or himself. Before the patient makes a decision, she or he should be introduced to patients who have and have not had the surgery. Once she or he is fully informed, she or he should be provided access to a patient-centered surgeon”).
[5] Khoản 4 cũng sử dụng cụm từ này khi đề cập đến việc chuyển giới.
[6] Được thông qua tại Canada ngày 26/3/2007.
[7] Xem một số nghiên cứu của cùng tác giả bài viết: Các vấn đề xã hội và pháp lý về cộng đồng người đồng tính, song tính và chuyển giới tại Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số tháng 6/2013; Người đồng tính, song tính, chuyển giới tại Việt Nam với nhu cầu đổi mới hệ thống pháp luật, Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2014…
[8] Trước đó, tại kỳ Kiểm định Định kỳ Phổ quát năm 2009, Việt Nam cũng từng chấp nhận khuyến nghị: “Tăng cường nỗ lực gia tăng nhận thức xã hội về những vai trò giới tích cực, đặc biệt hướng đến việc xóa bỏ những khác biệt do giới đang tồn tại trong giáo dục và thị trường lao động. Tiếp tục thực thi những nỗ lực lớn hơn để thúc đẩy quyền của những người dễ bị tổn thương về xã hội, bao gồm người khuyết tật (Khuyến nghị số 28, 29 của Bangladesh và Hàn Quốc)”.
[9] Nguồn: http://dienngon.vn/Blog/Article/co-hoi-nao-cho-nguoi-chuyen-gioi-trong-bo-luat-dan-su-sua-doi, ngày 14/42015.
[10] Do nhà sử học Lê Quý Đôn biên soạn năm 1759, xem tại: http://www.viethoc.org/eholdings/sach/dvts.pdf
[11] Xem: Nhật Thy, Người chuyển giới tại Việt Nam: Còn vướng nhiều rào cản,
http://tiengchuong.vn/Utilities/PrintView.aspx?id=10913, ngày 29/7/2014.
[12] Nhiều người chuyển giới phải đi hát quán bar, hát đám ma, lang thang, thậm chí phải hành nghề mại dâm…
[13] Xem: Hoàng Yến, Hiếp dâm người chuyển đổi giới tính, có bị tội?, nguồn:
[14]Xem: Người chuyển giới ở tù: phòng nam hay phòng nữ?, http://danviet.vn/52213p1c33/nguoi-chuyen-gioi-o-tu-phong-nam-hay-phong-nu.htm, ngày 1-8-2011.